câu 3 : Nét đặc sắc trong công cuộc cải cách của Vua Lê thánh tông (phân tích cơ quan NN TW, địa phương , ...
Trả lời:
1. Chính quyền trung ương:a. Đối với các chức quan to trong triều:Nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền hoặc tiếm quyền, để nhà vua trực tiếp nắm các cơ quan chủ yếu và trọng yếu của triều đình, Vua LÊ đã tiến hành những biện pháp sau:
- Bãi bỏ chức Tể tướng (Vì tể tướng là người có rất nhiều quyền hành, chỉ đứng dưới vua mà trên muôn người, nên dễ lạm quyền và tiếm quyền, xâm hại đến quyền lực của Vua).
-Bãi bỏ chức Đại hành khiển(đứng đầu hàng ngũ quan văn).
-Đối với chức quan đại thần, ba chức Tư cũng bị bãi bỏ, chỉ giữ lại các chức Tam Thái, Tam Thiếu. Trong đó, thái sư, thái phó được ban hàm chánh nhất phẩm, còn hàm chánh nhị phẩm ban gồm Thiếu su, Thiếu bảo.
- Các quan đại thần (những công thần và có uy tín lớn) không được kiêm nhiệm các chức vụ khác.
b. Lục Bộ: năm 1466 Lê Thánh Tông đổi 6 viện thành Lục Bộ
Lục Bộ là những cơ quan cơ bản và trọng yếu của triều đình.(Gồm Bộ Lễ; Bộ Lại; Bộ Hộ; Bộ Hình; Bộ Công; Bộ Binh).
Đứng đầu mỗi Bộ là Thượng Thư, hàm tòng nhị phẩm và hai chức Tả, Hữu thị lang, đều hàm tam phẩm.
Các cơ quan ở trong Bộ có sảnh và ty.
Mỗi Bộ có Tư vụ sảnh , đứng đầu là viên Tư vụ với hàm tòng bát phẩm.
Các Bộ:
- Bộ Lễ: có chức năng phụ trách việc lễ nghi, tế tự, tiệc tùng, thi cử và học hành, quản lý lễ nghi của quan lại, đúc ấn tín, trông coi Tư Thiên giám, Thái Y viện,...
- Bộ Lại: giúp vua quản lý toàn bộ đội ngũ quan lại trong cả nước.
- Bộ Hộ: Thực thi việc cấp ruộng đất cho quan lại, binh lính theo chế độ; thu tô thuế của các địa phương nộp lên; quản lý kho tàng của Nhà nước; phát lương bổng cho quan, quân, quản lý việc chi tiêu và cấp phát tài chính cho các Bộ và các cơ quan khác; tổng hợp số lượng đinh, điềo trong nước; cân đối thu chi ngân khố Nhà nước, định lượng và tổng kết chi tiêu hàng năm .
- Bộ Hình : trông coi về hình pháp, xét xử và ngục tụng. trong hình pháp thấy điều nào quá nặng, hoặc quá nhẹ, hay chưa hợp lý thì tâu lên Vua để sửa đổi; xét xử một số vụ trọng án, hoặc xử lại một số vụ án nặng mà nha môn trong ngoài đã xử, song tâu lên vua chờ chiếu chỉ; cùng ngự sử đài kiểm tra công việc xử án của các nha môn trong cả nước; quản lý và kiểm tra ngục tù; truy nã tù trốn.
- Bộ Công: giúp vua trông coi công việc sửa chữa , xây dựng cung điện, đường xá, cầu cống, thành trì,...quản lý công xưởng, thợ thuyền của Nhà nước.
- Bộ Binh: giúp vua tuyển quân, huấn luyện quân đội, quân trang và khí giới, trông coi việc trấn giữ các nơi biên ải và ứng phó với tình hình khẩn cấp.
c. Lập ra Lục Tự do vua Thánh Tông lập ra năm 1466 nhằm trông coi những việc mà Lục Bộ không quản lý hết được.Lục Tự cũng là một cơ quan trực thuộc vua.
Gồm:
- Đại lý tự: xem xét lại các vụ án của Bộ Hình.
- Thái Thường Tự: phụ trách thi hành những thể thức lễ nghi và điều khiển ban âm nhạc,...
- Quang Lộc Tự: cung cấp và kiểm tra đồ ăn thức uống trong các buổi tiệc ở triều đình.
- Thái Bộc Tự: giữ gìn, trông nom xe ngựa của vua và các hoàng tử.
- Hồng Lô Tự:tổ chức các buổi xưng danh các vị tân khoa tiến sĩ, tổ chức an táng cho các quan to trong triều.
- Thường Bảo Tự:đóng ấn vào quyển thi của các thí sinh trong các kỳ thi hội.
d. Lục Khoa: năm 1465 Vua Lê đổi Trung thư Khoa làm Lại Khoa, Hải Khoa làm Hộ Khoa, Đông khoa làm Lễ Khoa, Bắc khoa làm Công khoa, Nam khoa làm Binh khoa, Tây khoa làm Hình Khoa.
đ. về các cơ quan khác: Lê Thánh Tông đã tiến hành cải cách ở các cơ quan chuyên về nông nghiệp: thành lập các cơ quan như Sở Đồn điền. Sở tầm tang, sở thực thái, sở điền mục. còn các cơ quan khác như Hàn lâm viện, Đông các viện, Trung thư giám, Hoàng Môn tỉnh, Bí thu giám, Ngự sử đài, Thông chính ty, Quôc tử giám, Quôc sử viện, Tư thiên giám, Thái Y viện, Tôn nhân phủ thì không có cải cách gì đáng kể.
2. Chính quyền địa phương:a. quá trình cải tổ chính quyền địa phươngNăm 1465 : bãi bỏ chức Hành khiển, cơ quan chính quyền ở cấp đạo là ty Tuyên chính sứ.
Năn 1466 : Đặt 13 đạo thừa tuyên, đổi lộ làm phủ, đổi trấn thành châu. đổi Lộ An phủ sứ làm tri phủ, Trấn phủ làm đồng Tri phủ, chuyển vận làm tri huyện, Tuần sát làm Huyện thừa, Xã quan làm xã trưởng.
Năm 1469 : định bản đồ các phủ, huyện, châu, xã thuộc 12 đạo thừa tuyên trong nước.
Năm 1490 : định lại bản đồ của 13 Xứ thừa tuyên.
b. các cấp chính quyền địa phương:* cấp đạo - xứ: một là :Vua Lê chia cả nước làm nhiều đạo nhỏ, hai là:không để quyền hành ở cấp đạo tập trung vào tay một người mà tản ra cho 3 cơ quan là Tam ty( thừa ty, đô ty, và Hiến ty), ba là :giám sát chặt chẽ cấp đạo.
* Cấp phủ: Đứng đầu là tri phủ hàm tòng lục phẩm, và chức phó là hàm tri phủ hàm tòng thất phẩm, đặc biệt có chức Hà đê sứ và khuyến nông Sử đều hàm tòng cửu phẩm.
* Cấp huyện - châu: Nhà Lê đặc biệt quan tâm đến các châu miền núi vì đây là những nơi xa xôi, vì vậy nhà Lê tranh thủ các tù trưởng đia phương để bảo vệ quốc gia.
* Cấp xã: Nhà vua ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về cấp xã và đặc biệt tiến hành cải tổ lại cấp xã:
- Một là phân định lại các xã( chia đều phạm vi và hộ dân của các xã).
- Hai là : đặt ra các tiêu chuẩn của xã trưởng.
- Ba là : hạn chế và kiểm duyệt hương ước (1. các làng xã không nên có khoản ước riêng, vì đã có pháp luật chung của nhà vua;2. làng nào có những tục khác lạ thì có thể cho lập khoán ước và đặt ra những lệ cấm;3.việc thảo ra hương ước phải là những người có học thức, có đức hạnh, có chức phận chính thức và tuổi tác; 4. thảo xong, khoán ước phải được trên duyệt và có thể bị bác bỏ; 5. khi có khoán ước rồi mà vẫn có những người không chịu tuân theo, cú nhóm họp riêng, thì những kẻ ấy sẽ bị quan trị tội)
3. QUÂN ĐỘI A. Chế độ trưng tậpNăm 1465, Lê Thánh Tông cho làm hộ tịch trong cả nước. Cứ 3 năm một lần làm lại hộ khẩu gọi là “tiểu điển”, 6 năm một lần gọi là “đại điển". Cứ 6 năm 1 lần, các xã trưởng mang sổ hộ khẩu của mình lên kinh đô chiếu vào viết lại trong chính thư của triều đình về số dân hiện tại trong xã.
Cũng định kỳ 6 năm một lần, triều đình sai các quan về địa phương dựng lập trường tuyển, sau đó duyệt tân binh. Trừ các hàng chức sắc, quan lại, các dân đinh từ 18 tuổi trở lên đều phải đăng ký vào hộ tịch và được chia làm các bậc: tráng hạng, quân hạng, dân hạng, lão hạng, cố hạng, cùng hạng.
*Đối tượng trưng tậpKhi cần điều động, sẽ đưa tráng đinh làm lính, dâng tráng sung vào hạng quân ở nhà làm ruộng. Khi nào thải người già yếu, thì chiếu theo thứ tự lấy bổ sung vào.
Lệ tuyển dân đinh vào làm lính như sau:
Nhà có 3 dân đinh thì 1 người vào hạng lính tráng, 1 người vào hạng quân, 1 người vào hạng dân.
Nhà có 4 người thì bổ 2 người hạng dân
Nhà từ 5 đinh trở lên thì 2 người bổ hạng lính, 1 người bổ hạng quân ứng vụ.
Phan Huy Chú đã nhận xét về phép tuyển lính của nhà Lê trong sách Lịch triều hiến chương loại chí:
Phép tuyển binh thời Hồng Đức rõ ràng, chu đáo. Dân đinh không sót tên trong sổ mà số binh thường có nhiều, vì kén lựa được đúng số.
B.Đối tượng miễnCác đối tượng được miễn gồm có:
- Con cháu các quan viên: quan văn võ nhất phẩm, nhị phẩm và con trưởng quan tam phẩm; con cháu các công, hầu, bá nếu biết chữ sẽ sung làm nho sinh trong Sùng văn quán, nếu không biết chữ thì cho vào làm tuấn sĩ đội Cẩm y. Các con quan tam phẩm tới bát phẩm nếu biết đọc sách thì cho thi vào làm nho sinh Tú lâm cục, nếu không biết chữ thì sung vào quân Vũ lâm; nếu có tài được bổ làm quan ở các nha môn. Con quan cửu phẩm chỉ có 2 người được như con quan bát phẩm, còn lại các con khác như dân thường.
- Với dân thường: Nhà nào cha con, anh em từ 3 đinh trở lên cùng trong 1 xã thì 1 đinh được miễn tuyển, nếu ở khác xã thì không được miễn.
- Người làm thuê, làm mướn: đối tượng này nếu biết chữ và được ty Thừa tuyên bản xứ chấp thuận thì được miễn.
C.Tổ chức quân Ngũ phủNăm 1466, Lê Thánh Tông cải tổ hệ thống tổ chức quân đội. Quân đội toàn quốc chia làm 2 loại: thân binh thay cấm binh bảo vệ kinh thành, còn ngoại binh trấn giữ các xứ. Thân binh gồm 2 vệ Kim ngô và Cẩm y, 4 vệ Hiệu lực, 4 vệ Thần vũ, 6 vệ Điện tiền, 4 vệ Thuần tượng, 4 vệ Mã bế.
Vua Lê đặt quân Ngũ phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ có 5-6 sở.
Trung quân phủ: lãnh các xứ Thanh Hóa, Nghệ An
Đông quân phủ: lãnh các xứ Hải Dương, Yên Bang
Nam quân phủ: lãnh các xứ Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam
Tây quân phủ: lãnh các xứ Tam Giang, Hưng Hóa
Bắc quân phủ: lãnh các xứ Kinh Bắc, Lạng Sơn.
Riêng Thái Nguyên và Tuyên Quang thì thuộc vào quân Phụng Trực. Năm 1471, Lê Thánh Tông lập thêm đạo Quảng Nam chiếm được từ Chiêm Thành, giao cho Nam quân phủ kiêm luôn đạo này.
“Phủ” trong trường hợp này không phải là đơn vị quân đội mà tương đương với 2 hay 3 khu vực hành chính (đạo hoặc thừa tuyên). Mỗi phủ có Tả đô đốc, Hữu đô đốc, Đồng tri đô đốc, Thiêm sự. Tại các vệ đặt chức Tổng tri, Đồng tổng tri và Thiêm tổng tri. Tại sở đặt các chức quản lãnh, phó quản lãnh, vũ úy và phó vũ úy. Mỗi ngũ được đặt 1 chức Tổng kỳ[8].
Quân số các đơn vị được quy định thống nhất: mỗi ty 100 người, mỗi sở 400 người, chia làm 20 đội, mỗi đội có 20 người. Tổng số ngoại binh thời điểm đó có 154 sở, nghĩa là 61.600 người; thân binh trong kinh thành có 66 ty và 97 sở tức là 45.000 người; số quân đô ty tại các đạo, thừa tuyên là 152 sở gồm 60.800 người. Tổng số quân thường trực trong nước có 167.800 người.
D. Chế độ kỷ luậtNăm 1467, Lê Thánh Tông ban hành Luật cấm vệ và quân chính, trong đó có các quy định:
Những người sao quân, sao đội và chánh phó ngũ trưởng nếu che đậy hoặc để cho lính trốn và bóc lột xoay tiền thì xử tội đồ, lưu; nếu nặng thì xử tử và truy tiền công theo luật.
Kẻ phải ra trận mà tìm cách xảo trá trốn tránh sẽ bị chém. Tướng chỉ huy không hỏi đến cùng thì bị xử giảm 2 bậc so với người phạm tội, nếu đồng lõa thì bị xử lưu
Tướng hiệu ở nơi trấn thủ tự ý cho phép quân lính về nhà thì xử tội đồ, cho phép rời nơi đóng quân thì giảm 1 bậc; đang lúc đánh trận mà thả cho đi thì xử chém
Quân lính bỏ trốn thì xử đồ, tái phạm thì xử lưu, người chứa chấp lính trốn cũng bị tội. Xã trưởng không bắt lính trốn mang nộp cũng bị xử bớt 1 bậc so với người phạm tội; quan huyện, quan lộ biết mà đồng tình thì bị bãi chức. Lính trốn tự ra đầu thú thì được xử giảm 1 bậc và bắt đền tiền khóa dịch cho triều đình.
Quan tướng hiệu không siêng năng huấn luyện, lại sai quân sĩ làm việc riêng cho mình, nhẹ thì xử tội đồ, nặng thì xử tội lưu
Khi có kỳ duyệt tập quân đội, quân lính ai thiếu mặt thì xử phạt đánh 80 trượng, biếm làm quân đinh ở bản quân và phạt 3 quan tiền. Đội trưởng và chánh, phó ngũ trưởng mượn người thay thế cũng bị phạt đánh 80 trượng và giáng chức 3 bậc.
E. Thành tựuNhững cải cách quy định quân sự dẫn đến những thay đổi to lớn trong tổ chức binh chế thời Lê. Cùng xu hướng trung ương tập quyền cao, triều đình nắm độc quyền tổ chức lực lượng vũ trang và người đứng đầu là vua. Các quan lại quý tộc thời Lê hoàn toàn không có quyền tổ chức quân đội riêng như dưới thời nhà Trần.
Chế độ duyệt tuyển của nhà Lê ngày càng hoàn thiện và chính quy hơn trước. Quân đội được chia khẩu phần ruộng đất công của làng xã, do đó yên tâm hơn trong thời gian dài trong quân ngũ. Ngoài ra, nhà Lê vẫn áp dụng chế độ “ngụ binh ư nông” như các triều trước nhằm đảm bảo sản xuất nông nghiệp, của cải vật chất cho xã hội. Chế độ này làm giảm người thoát ly sản xuất, khiến triều đình giảm bớt chi phí quân sự, bảo đảm cân đối giữa kinh tế và quốc phòng.
Nhà Lê xây dựng được lực lượng quân đội hùng mạnh. Phan Huy Chú lý giải rằng, với chế độ tuyển quân chặt chẽ đảm bảo cho nhà Lê huy động được nhiều quân, do đó mới có số quân bộ đi đánh Chiêm Thành, Bồn Man là 26-30 vạn
Quân đội hùng hậu của nhà Lê góp phần củng cố chính quyền trung ương tập quyền vững mạnh và đưa nước Đại Việt từ thời Lê Thánh Tông trở thành quốc gia hùng cường ở bán đảo Trung - Ấn, mở rộng đất đai phía tây và phía nam, khiến nhiều quốc gia ở Đông Nam Á như Chiêm Thành, Chân Lạp, Lan Xang, Chiang Mai, Ayutthaya và Java phải thần phục.